Hội chứng Kallmann gây mất khứu giác, cản trở dậy thì Leave a comment

Hội chứng Kallmann là rối loạn di truyền, gây cản trở chức năng vùng hạ đồi – tuyến yên, khiến trẻ chậm hoặc không dậy thì, suy giảm chức năng khứu giác.

Bác sĩ CKI Phan Thị Thùy Dung (khoa Nội tiết – Đái tháo đường, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM) cho biết, hội chứng Kallmann là dạng bệnh thiểu năng sinh dục bẩm sinh do cơ thể sản xuất thiếu một số hormone định hướng sự phát triển giới tính. Bình thường, vùng hạ đồi – tuyến yên trên não bộ sẽ tiết ra những hormone hướng sinh dục có tác dụng kích hoạt quá trình dậy thì và chức năng sinh sản. Bệnh xuất hiện từ lúc mới sinh, tuy nhiên, thường được chẩn đoán trễ lúc trẻ 14-16 tuổi khi cha mẹ nhận thấy trẻ không có đặc điểm dậy thì.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc vùng hạ đồi – tuyến yên giảm tiết những hormone hướng sinh dục, ảnh hưởng đến quá trình dậy thì. Theo bác sĩ Dung, hội chứng Kallmann chiếm khoảng một nửa trong số các nguyên nhân gây suy sinh dục có nguồn gốc từ suy chức năng vùng hạ đồi – tuyến yên. Suy giảm chức năng khứu giác (không nhận biết được mùi) là triệu chứng chính giúp nhận biết sớm và phân biệt hội chứng Kallmann.

Những triệu chứng khác bao gồm: sứt môi, hở hàm ếch, có một thận, mất thính lực, chuyển động mắt bất thường, tinh hoàn ẩn, bất thường xương ngón tay, hiện tượng đồng động tay (có khuynh hướng bắt chước lại hoạt động của tay kia khi vận động gây khó khăn khi thực hiện các công việc đòi hỏi hai tay phải cử động riêng rẽ, chẳng hạn như chơi một nhạc cụ).

Bác sĩ Dung cho biết thêm, hội chứng Kallmann là bệnh hiếm gặp, xảy ra ở nam nhiều hơn nữ, với tỷ lệ 1/30.000 nam và 1/120.000 nữ. Do đặc tính di truyền, hội chứng này có thể xuất hiện ngay từ khi mới sinh. Bệnh nhân nam thường có dương vật nhỏ bất thường và tinh hoàn không to lên. Ở tuổi dậy thì, hầu hết người bệnh không phát triển các đặc điểm giới tính như: không có râu, giọng nói the thé (ở nam), không có kinh nguyệt, không thấy ngực phát triển (ở nữ), không có hoặc ít lông mu, lông nách…. Nếu không được điều trị sớm người bệnh sẽ bị vô sinh và có những bất thường tâm lý, kèm theo đó là các rối loạn chuyển hóa do suy giảm hormone sinh dục.

Ba kiểu di truyền hội chứng Kallmann

Hội chứng Kallmann di truyền theo 3 cách như di truyền theo kiểu liên kết nhiễm sắc thể giới tính X, di truyền trội và di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường.

Di truyền theo kiểu liên kết nhiễm sắc thể giới tính X: nam giới chỉ cần nhận một nhiễm sắc thể X mang gene đột biến từ mẹ là có thể biểu hiện bệnh. Với nữ giới (người có hai nhiễm sắc thể X) thì cần tới hai gene đột biến. Kiểu di truyền này cũng có nghĩa người cha không thể truyền bệnh cho con trai (do con trai chỉ nhận nhiễm sắc thể Y từ cha). Một ví dụ về hội chứng Kallmann di truyền theo kiểu này là dạng đột biến gene ANOS1.

Di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường: chỉ cần một trong hai người cha hoặc mẹ mang gene đột biến là có thể truyền cho con cái và gây ra bệnh. Người con chỉ cần mang một gene đột biến là có thể biểu hiện bệnh. Hội chứng Kallmann do những đột biến gene như PROKR2, PROK2, CHD7, FGF8 sẽ có kiểu di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường.

Di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường: cả cha và mẹ (thường là người không có triệu chứng) có thể sinh ra con bị hội chứng Kallmann. Trong trường hợp này, người con phải mang hai gene gây bệnh nhận từ cha và mẹ. Các gene bị đột biến trong trường hợp này là PROKR và PROK2.

Bác sĩ Dung giải thích, ở người mắc hội chứng Kallmann, những đột biến di truyền làm thay đổi sự di chuyển hoặc chức năng của một số tế bào thần kinh trong não. Trước khi bé chào đời, tế bào thần kinh khứu giác (vốn chịu trách nhiệm về mùi) và tế bào thần kinh sản xuất ra hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) được hình thành khi mũi đang phát triển. GnRH là hormone ở vùng hạ đồi có tác dụng kích thích tuyến yên sản xuất gonadotropin. Gonadotropin là hormone hướng sinh dục ở tuyến yên, có tác dụng lên cơ quan sinh dục như tinh hoàn ở nam và buồng trứng ở nữ tiết ra các hormone giới tính…

Bình thường, khi bào thai trưởng thành, tế bào thần kinh bắt đầu di chuyển từ mũi lên não, đến vùng dưới đồi (có nhiệm vụ tiết ra hormone GnRH, điều hòa thân nhiệt và nhịp thở). Tuy nhiên, do một số đột biến di truyền nhất định, những tế bào thần kinh này không di chuyển đúng cách trong quá trình phát triển ở những bệnh nhân mắc hội chứng Kallmann. Kết quả là sau khi sinh, những người mắc hội chứng Kallmann có biểu hiện suy giảm chức năng khứu giác, khó nhận biết mùi hương. Điều này cũng đồng nghĩa với tình trạng não không giải phóng GnRH ở mức bình thường.

Khi GnRH từ vùng hạ đồi bị suy giảm, tuyến yên sẽ không tiết đầy đủ các hormone hướng sinh dục như FSH và LH. FSH là hormone có tác dụng kích thích nang trứng phát triển và quá trình tạo tinh trùng. LH là homrone có tác dụng phóng thích trứng, kích thích buồng trứng và tinh hoàn tạo các hormone sinh dục như estrogen và testosterone.

Ở người bình thường, những hormone này thúc đẩy tuyến sinh dục sản xuất testosterone và estrogen, qua đó, thúc đẩy sự phát triển của các đặc điểm sinh dục thứ cấp (như phát triển ngực, mọc lông mu, lông mặt). Người mắc hội chứng Kallman có thể cần tới sự can thiệp của liệu pháp thay thế hormone để thúc đẩy việc giải phóng các hormone này.

Chẩn đoán, điều trị

Những bất thường về sức khỏe gây ra bởi hội chứng này thường xuất hiện khi mới sinh nhưng có thể được chẩn đoán trễ hơn (giai đoạn dậy thì 14-16 tuổi). Bác sĩ chẩn đoán bệnh dựa trên thăm khám lâm sàng, thực hiện các xét nghiệm nội tiết, hình ảnh học và xét nghiệm di truyền.





Bác sĩ thăm khám lâm sàng, làm các xét nghiệm để chẩn đoán hội chứng Kallmann. Ảnh: Shutterstock

Bác sĩ thăm khám lâm sàng, làm các xét nghiệm để chẩn đoán hội chứng Kallmann. Ảnh: Shutterstock

Theo bác sĩ Dung, mục tiêu chính của điều trị hội chứng Kallmann là kích thích quá trình dậy thì và tái lập khả năng sinh sản của người bệnh. Điều trị thay thế hormone có thể bắt đầu bằng thay thế các hormone sinh dục như testosterone cho nam; estrogen và progesterone cho nữ. Bản thân liệu pháp thay thế testosterone và estrogen hoặc progesterone sẽ không phục hồi được khả năng sinh sản. Mục tiêu của liệu pháp điều trị này là để kích thích dậy thì và phát triển các đặc điểm giới tính thứ cấp. Điều trị hormone sinh dục cũng đóng vai trò quan trọng để duy trì mật độ xương – vốn dĩ có thể suy giảm do thiếu hormone sinh dục.

Tuy nhiên, nếu sử dụng liệu pháp tiêm các hormone như FSH hoặc LH, cũng như các dạng GnRH tổng hợp thì có thể giúp phục hồi khả năng sinh sản cũng như kích thích buồng trứng, tinh hoàn tổng hợp các hormone sinh dục.

Bác sĩ Dung dẫn một vài nghiên cứu cho thấy, 10-20% người mắc bệnh thiểu năng sinh dục bẩm sinh tự phục hồi khả năng sản xuất các hormone này. Dù vậy, sự phục hồi này có thể không kéo dài. Khi trưởng thành, người mắc hội chứng Kallmann cũng đối diện với khả năng khó có con nếu không được điều trị. Những phương pháp điều trị thay thế hormone có thể mang đến hiệu quả tăng cường khả năng sinh sản cho người bệnh. Ước tính cho thấy khả năng sinh sản có thể đạt được ở 75-80% bệnh nhân nam. Các liệu pháp như GnRH xung động cũng có thể giúp kích thích rụng trứng ở phụ nữ. Liệu pháp hỗ trợ sinh sản cũng là lựa chọn cho người mắc hội chứng Kallmann mong muốn thụ thai.

Hoàng Trang

Trả lời