Những người có nguy cơ u màng não Leave a comment

Người có tiền sử gia đình mắc u màng não, tiếp xúc với bức xạ, nữ giới có nhiều khả năng mắc loại khối u này nhưng thường lành tính.

U màng não phát triển ở lớp màng bao phủ não, rễ thần kinh và tủy sống, rất thường gặp trong các loại khối u não. U màng não thường xuất phát từ màng nhện, là phần giữa của ba lớp màng bao quanh não và tủy sống. Hầu hết các u màng não phát triển chậm và lành tính nhưng một số có thể trở thành ác tính (ung thư).

Nghiên cứu tổng hợp và phân tích của 27 nghiên cứu đăng trên tạp chí Neurologia Medico Chirurgica, nhiều người có thể bị u màng não nhưng chúng không được chẩn đoán phổ biến. Điều này là do các khối u có thể phát triển chậm hoặc đôi khi hầu như không phát triển. Theo Hiệp hội Ung thư lâm sàng Mỹ, u màng não chiếm khoảng 39% tổng số các khối u não nguyên phát được chẩn đoán ở Mỹ. Khoảng 37.000 người được chẩn đoán mắc u màng não mỗi năm. Những thống kê này cho thấy, u màng não là một trong những loại u não phổ biến nhất.

Khi khối u gây tăng áp lực nội sọ, người bệnh sẽ đau đầu, nôn hoặc buồn nôn, giảm thị lực. Các triệu chứng như nhìn mờ, mất thị lực một phần, ù tai, giảm thính lực, tê bì mặt, co giật… có thể xuất hiện nếu tổn thương thần kinh sọ.





Đau đầu là dấu hiệu thường gặp của u màng não. Ảnh: Freepik

Đau đầu là dấu hiệu thường gặp của u màng não. Ảnh: Freepik

Đột biến gene là một trong những nguyên nhân chính gây ung thư. Dưới đây là các yếu tố nguy cơ gây ra loại khối u này.

Các yếu tố nguy cơ

Di truyền

Các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm hiểu về nguyên nhân chính xác của u màng não, nhưng họ nhận thấy các đột biến khiến các tế bào phát triển ngoài tầm kiểm soát và hình thành một khối u. Di truyền có thể ảnh hưởng đến khả năng một người bị u màng não. Cha mẹ có thể di truyền các đột biến gây ra khối u này cho các con. Có những yếu tố di truyền làm tăng nguy cơ bị u não. Người có nhiều khả năng bị u màng não nếu bị đột biến ở nhiễm sắc thể số 22, các rối loạn hiếm gặp như hội chứng Von Hippel-Lindau, hội chứng Turcot, hội chứng Li-Fraumeni…

Tiếp xúc phóng xạ, xạ trị

Các yếu tố khác làm tăng nguy cơ u màng não như người tiếp xúc với mức độ phóng xạ cao, trải qua xạ trị để điều trị ung thư não, từng điều trị bằng bức xạ thời thơ ấu… Điều này đã được nghiên cứu ở những bệnh nhân đã được xạ trị cho các bệnh ung thư não khác nhau. Vì có thể mất rất nhiều thời gian từ khi điều trị bức xạ đến khi phát hiện ra u màng não nên nguy cơ cao nhất đối với những người được xạ trị khi còn nhỏ.

Một đánh giá năm 2017 của Đại học Y khoa tỉnh Kyoto (Nhật Bản) cho thấy, những bệnh nhân bị u màng não do bức xạ đã phát triển trung bình 23 năm sau khi điều trị bằng bức xạ. Tuổi trung bình những bệnh nhân này được xạ trị là khoảng 13 tuổi.

Tuổi cao, giới tính nữ

Nữ có nhiều khả năng bị u màng não hơn nam. Các khối u màng não thường có các thụ thể hormone giới tính, điều này có thể dẫn đến sự khác biệt về nguy cơ giữ hai giới. Chúng tương đối hiếm ở trẻ em. Nguy cơ sẽ tăng theo độ tuổi.

Các yếu tố khác

Nghiên cứu của Mỹ năm 2011 đăng trên tạp chí Neuro Oncology cho thấy, ít hoạt động thể chất, tăng chỉ số khối cơ thể – BMI (một dấu hiệu của thừa cân hoặc béo phì), cao lớn và tiền sử u xơ tử cung có thể làm tăng nguy cơ u màng não ở phụ nữ lớn tuổi. Tuy nhiên, các nguy cơ này với các kết quả trái ngược nhau qua các nghiên cứu.

Theo không có bằng chứng nào cho thấy mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động và nguy cơ mắc u màng não. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được liệu nguy cơ mắc u màng não có tăng lên khi sử dụng điện thoại di động hay không. Họ cũng không tìm thấy nguy cơ với các thiết bị không dây khác.

Điều trị

Những khối u này có xu hướng phát triển chậm và thường không cần điều trị nhưng cần được theo dõi.
U màng não giai đoạn một có thể không cần điều trị. Thay vào đó, chúng thường được theo dõi về khả năng phát triển.

U màng não trở nên nghiêm trọng khi chúng đang phát triển hoặc tấn công các bộ phận khác của não. Khi đó, chúng có thể được điều trị bằng phẫu thuật hoặc xạ trị. Đối với u màng não cần điều trị, phẫu thuật là lựa chọn phổ biến nhất. Khi không thể loại bỏ hoàn toàn khối u bằng phẫu thuật, liệu pháp bức xạ có thể được sử dụng. Bức xạ đôi khi cũng được sử dụng cho các khối u ở những vị trí không thể phẫu thuật.

Bệnh nhân bị u màng não tiến triển có nhiều khả năng tái phát u màng não sau khi điều trị. Họ cũng có nguy cơ tử vong cao hơn. Nghiên cứu của Đại học California (Mỹ), tỷ lệ sống sót sau năm năm của những người bị u màng não giai đoạn hai là khoảng 67,5%. Con số này là 55,6% đối với bệnh nhân ở giai đoạn ba.

Kim Uyên
(Theo Very Well Health)

Trả lời