‘Thói quen ăn mặn làm tích tụ bệnh tật theo thời gian’ Leave a comment

Thói quen ăn quá mặn của người Việt tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với sức khỏe mỗi người, kể cả những người khỏe mạnh, PGS.TS Nguyễn Thị Lâm cảnh báo.





Phó giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Lâm, nguyên phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Ảnh:NVCC

Phó giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Lâm, Nguyên phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Ảnh:NVCC

– Bác sĩ có thể cho biết việc ăn mặn trong thời gian dài tác động như thế nào đến sức khỏe?

– Tổ chức Y tế thế giới WHO khuyến nghị mỗi người chỉ nên tiêu thụ không quá 5g muối mỗi ngày để giảm thiểu các nguy cơ về bệnh tim mạch. Tuy nhiên, theo số liệu điều tra, người Việt đang tiêu thụ trung bình lượng muối lên tới 9,4 g mỗi ngày, gấp đôi so với con số khuyến nghị. Đây là một con số báo động, bởi chế độ ăn thừa muối trong thời gian dài tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn tới bệnh lý nguy hiểm không chỉ bệnh tim mạch, mà còn các bệnh về dạ dày, thận, loãng xương, béo phì…

Thói quen ăn mặn ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của mọi độ tuổi, nhóm người trong độ tuổi thanh niên và trung niên (16-50 tuổi) đang có sức khỏe tốt cũng không loại trừ. Hậu quả việc ăn mặn đến chậm nên nhiều người chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng của chế độ ăn giảm mặn.

Cụ thể, thói quen ăn mặn làm lượng muối natri tích tụ theo thời gian, vượt khỏi khả năng lọc của thận. Natri tích tụ, kéo theo hiện tượng giữ nước trong máu để pha loãng natri, từ đó làm tăng lượng nước trong tế bào. Tế bào cơ trơn của thành mạch lúc này đã có nhiều ion natri di chuyển vào khiến mạch bị co lại. Tăng thể tích máu có nghĩa là tim phải làm việc nhiều hơn. Theo thời gian, áp lực máu trên thành mạch tăng sẽ dẫn đến cao huyết áp, đau tim, đột quỵ. Tình trạng này kéo dài dẫn đến suy tim.

Bên cạnh đó, việc ăn mặn trong thời gian dài còn gây ức chế hấp thu và sử dụng canxi của cơ thể, dẫn đến sự mất mát khối lượng xương, gây loãng xương. Phụ nữ sau khi mãn kinh, bệnh nhân tiểu đường và người già có nguy cơ cao của bệnh loãng xương. Người khỏe mạnh ăn mặn trong thời gian dài cũng nằm trong nhóm nguy cơ.

Ăn nhiều muối khiến cơ thể phải thu nạp nhiều nước, dẫn tới tuần hoàn máu đến cầu thận tăng, buộc thận phải làm việc nhiều hơn để lọc máu, về lâu dài ảnh hưởng đến chức năng thận. Muối cũng là yếu tố thúc đẩy hoạt động của vi khuẩn Helicobacter pylori (HP), yếu tố nguy cơ chính gây ung thư dạ dày.

Chế độ ăn nhiều muối tích tụ lâu dài làm tăng đáng kể nguy cơ mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm tiềm tàng. Những cảnh báo gần đây về bệnh tăng huyết áp đang dần xuất hiện nhiều ở lứa tuổi thanh niên (dưới 40 tuổi). Khi còn trẻ, cơ thể khỏe mạnh nên nhiều người không cảm nhận và ý thức được tác hại của ăn mặn. Chúng ta cần phải nâng cao ý thức và thực hiện ăn giảm mặn càng sớm càng tốt để bảo vệ sức khỏe cho hiện tại cũng như tương lai.

– Tại sao nhiều người vẫn chưa nhận thức được tác hại của ăn mặn?

– Hầu hết các căn bệnh nguy hiểm đều diễn tiến âm thầm, mỗi ngày một chút. Bề ngoài chúng ta vẫn thấy khỏe mạnh, nên nhiều người đã bỏ qua những cảnh báo từ cơ thể, cho đến khi các yếu tố nguy cơ tích tụ thành bệnh thì chuyện đã rồi.

Thói quen và khẩu vị là thứ rất khó thay đổi. Huống chi thói quen ăn mặn của nhiều người ở lứa tuổi trung niên đã tồn tại suốt mấy chục năm. Lứa tuổi thanh niên thì thường đã quen với khẩu vị mặn từ nhỏ trong gia đình. Từ gia đình, bạn bè, cho đến các quán ăn đều cùng khẩu vị đậm mặn nên ai cũng thấy đó là bình thường. Điều này vô hình chung tạo thành thói quen chung của cả xã hội.





Nhiều người có thói quen nêm nếm gia vị quá mặn. Ảnh: Istock

Nhiều người có thói quen nêm nếm gia vị quá mặn. Ảnh: Istock

– Để điều chỉnh thói quen ăn mặn, người trưởng thành nên bắt đầu từ đâu?

– Đảm bảo cho mình một sức khỏe tốt là việc cần được mỗi cá nhân, mỗi gia đình ưu tiên hàng đầu. Bắt đầu từ một lối sống lành mạnh và sự quyết tâm thay đổi từng thói quen không tốt. Chẳng hạn, chỉ cần giảm ăn mặn đã giúp chúng ta cải thiện rất nhiều các vấn đề của sức khỏe.

Để phòng tránh tối đa các yếu tố nguy cơ, ngay cả những người trẻ khỏe mạnh cũng cần chủ động xây dựng cho mình một chế độ ăn phù hợp, đưa tiêu chí giảm mặn vào từng bữa ăn hằng ngày để bảo vệ sức khỏe. Bên cạnh đó, chúng ta nên thực hiện việc kiểm soát cân nặng, không để dư cân, ăn nhiều rau xanh, và duy trì lối sống tích cực: tăng cường luyện tập, giảm lo âu, căng thẳng trong cuộc sống để giúp nâng cao sức khoẻ.

– Thói quen là thứ rất khó thay đổi, bác sĩ có thể gợi ý một lộ trình thực hiện việc giảm mặn cụ thể?

– Việc ăn giảm mặn cần có lộ trình như khuyến cáo của Bộ Y tế: tức là chúng ta giảm mặn dần từ việc tiêu thụ muối xuống 7 g mỗi ngày vào năm 2023. Giai đoạn tiếp theo mới giảm xuống dưới 5 g muối cho một người mỗi ngày.

Lý thuyết là vậy nhưng ăn giảm mặn chính xác là giảm lượng muối natri trong khẩu phần ăn hàng ngày. Natri không chỉ có trong muối ăn mà còn có trong các gia vị khác như: bột ngọt, bột nêm, bột canh… Nên phương châm cần ghi nhớ là “giảm mặn trong mọi gia vị và đồ ăn”. Chúng ta có thể thực hiện việc này qua những hành động cụ thể như cho bớt muối khi chế biến thực phẩm, giảm bớt lượng muối nêm vẫn thường dùng, giảm từ từ tiến tới giảm một nửa lượng muối. Chủ động nấu ăn tại nhà nhiều hơn để trực tiếp điều chỉnh giảm mặn trong mọi gia vị và thức ăn. Việc nêm nếm thức ăn cho trẻ nhỏ cũng cần tiết chế, giúp trẻ có một khẩu vị vừa phải tốt cho sức khỏe. Và đừng quên lựa chọn các thực phẩm, gia vị giảm mặn: Hiện nay trên thị trường đã có các sản phẩm giảm mặn, đặc biệt là gia vị có công thức giảm mặn, nhận biết bằng logo hoặc thông tin trên nhãn sản phẩm. Hầu như gia đình Việt đều sử dụng nước mắm trong nấu nướng, luôn có bát nước chấm trong mâm cơm, bà nội trợ có thể chọn loại nước mắm giảm mặn để bắt đầu lối sống giảm mặn mà vẫn giữ được hương vị đậm đà cho bữa cơm.





Dấu hiệu nhận biết ngoài nhãn mác ở một số gia vị giảm mặn. Ảnh: Huỳnh Trần

Dấu hiệu nhận biết ngoài nhãn mác ở một số gia vị giảm mặn. Ảnh: Huỳnh Trần

Giảm mặn ngay hôm nay, từng chút mỗi ngày sẽ giúp cho chúng ta thiết lập thói quen mới, một lối sống lành mạnh mới, bảo vệ sức khỏe tim mạch và thoát khỏi các yếu tố nguy cơ khác.

Diệp Chi

Trả lời